Giá trị chẩn đoán và tiên lượng của chuyển đạo aVR trong nghiệm pháp gắng sức cho bệnh nhân nghi ngờ bệnh tim thiếu máu cục bộ

Mục tiêu đánh giá giá trị chẩn đoán và tiên lượng của đoạn ST chênh lên trên chuyển đạo aVR, chuyển đạo thường bị bỏ qua trong thực hành lâm sàng, trong quá trình thực hiện nghiệm pháp gắng sức và so sánh nó với tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất là đoạn ST chênh lên trong chuyển đạo V5. 
Chúng tôi ghi nhận 1,596 bệnh nhân nghi ngờ mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ dựa trên hình ảnh xạ hình tưới máu cơ tim và nghiệm pháp điện tim đồ gắng sức bằng đạp xe. Biên độ của đoạn ST trong chuyển đạo aVR và V5 được đo tự động. Tiêu chí chẩn đoán chính là sự hiện diện của thiếu máu cơ tim tương ứng được hiệu chỉnh dựa trên hình ảnh xạ hình tưới máu cơ tim và hình ảnh chụp động mạch vành. Các biến cố tim mạch chính bao gồm tử vong, nhồi máu cơ tim cấp, tái tưới máu mạch vành trong 2 năm theo dõi là tiêu chí tiên lượng chính. Thiếu máu cơ tim sau gắng sức đã được phát hiện ở 470 bệnh nhân (29%). Biên độ trung vị của đoạn ST trong các chuyển đạo aVR và V5 có khác biệt có ý nghĩa giữa các bệnh nhân có và không mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ (p <0,01). Độ chính xác chẩn đoán của thay đổi đoạn ST cho bệnh nhân thiếu máu cơ tim định lượng bởi vùng nằm bên dưới đường cong đặc trưng hoạt động thu nhận là cao nhất trong 2 phút ngay trước giai đoạn hồi phục và giống nhau cho cả hai chuyển đạo aVR và V5 (0.62, khoảng tin cậy 95% 0.60 đến 0.65 so với 0.60, khoảng tin cậy 95% 0.58 đến 0.63, với p < 0.08 trong phép toán so sánh). Trong phân tích đa biến, đoạn ST thay đổi ở chuyển đạo aVR, không phải V5, cung cấp những bằng chứng chẩn đoán độc lập hàng đầu trong số các thông số lâm sàng cũng như cách diễn giải các kết quả điện tâm đồ. Trong 2 năm theo dõi, MACE xảy ra ở 33% bệnh nhân có đoạn ST chênh lên ở chuyển đạo aVR và ở 16% bệnh nhân không có (p <0,001). 
Tóm lại, đoạn ST chênh lên ở chuyển đạo aVR trong quá trình thực hiện nghiệm pháp gắng sức chỉ điểm tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ một cách độc lập với đoạn ST chênh xuống trong chuyển đạo V5 và các yếu tố lâm sàng, đồng thời dự đoán MACE trong quá trình theo dõi.


Danh mục: Nghiên cứu khoa học

Bình luận
Bài viết liên quan