Thay van động mạch chủ qua catheter với mở rộng van bằng bóng ở bệnh nhân có nguy cơ thấp

Người dịch: ThS. Lê Văn Thực, Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Tim Hà Nội

Hiệu đính: PGS.TS. Lê Thu Hòa, Phụ trách Trung tâm ĐT- CĐT

https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMoa1814052?query=cardiology (nguồn gốc)

Tổng quan. Trong số những bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ có nguy cơ tử vong trung bình hoặc cao khi phẫu thuật, kết cục chính là giống nhau  giữa thay van động mạch chủ qua catheter (transcatheter aortic-valve replacement -TAVR) và thay van động mạch chủ bằng phẫu thuật. Chưa có bằng chứng thích hợp liên quan đến việc so sánh hai thủ thuật ở những bệnh nhân có nguy cơ thấp.

Phương pháp. Chúng tôi đã phân nhóm ngẫu nhiên các bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ nặng và nguy cơ phẫu thuật thấp để tiến hành TAVR với việc đặt van mở rộng bằng bóng hoặc phẫu thuật. Kết cục tiên phát là tổng hợp của tử vong, đột quỵ hoặc tái nhập viện sau 1 năm. Cả hai thử nghiệm không thua kém (với biên độ được xác định trước là 6 điểm phần trăm) và thử nghiệm vượt trội hơn đã được thực hiện trên nhóm bệnh nhân được điều trị.

Kết quả. Tại 71 trung tâm, 1000 bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 73 tuổi và điểm rủi ro trung bình của Hội phẫu thuật lồng ngực (STS score)  là 1,9% (với điểm số từ 0 đến 100% và điểm cao hơn cho thấy nguy cơ tử vong cao hơn trong vòng 30 ngày sau thủ thuật). Ước tính của Kaplan- Meier về tỷ lệ kết cục tổng hợp tiên phát trong 1 năm ở nhóm TAVR thấp hơn đáng kể so với nhóm phẫu thuật (8,5% so với 15,1%; chênh lệch tuyệt đối, 6,6 điểm phần trăm; 95% [ CI], −10,8 đến −2,5; P <0,001 đối với sự không thua kém; HR, 0,54; 95% CI, 0,37 - 0,79; P = 0,001 đối với sự ưu thế). Sau 30 ngày, TAVR có tỷ lệ đột quỵ thấp hơn so với phẫu thuật (P = 0,02) và tỷ lệ tử vong hoặc đột quỵ thấp hơn (P = 0,01) và rung nhĩ mới khởi phát (P <0,001) có tỉ lệ thấp hơn so với nhóm phẫu thuật. TAVR cũng giúp thời gian nằm viện ngắn hơn so với phẫu thuật (P <0,001) và có nguy cơ thấp hơn về kết cục điều trị kém (tử vong hoặc điểm Kansas City Cardiomyopathy Questionnaire thấp) sau 30 ngày (P <0,001). Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm trong các biến chứng mạch máu lớn, đặt máy tạo nhịp tim vĩnh viễn mới, hoặc hở cạnh van trung bình hoặc nặng.

Kết luận. Trong số những bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ nặng có nguy cơ phẫu thuật thấp, tỷ lệ tử vong, đột quỵ hoặc tái nhập viện sau 1 năm thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm TAVR so với nhóm phẫu thuật.


Danh mục: Bài viết chuyên đề

Bình luận
Bài viết liên quan