Độ chính xác của huyết áp đo bằng bao tay

Journal of the American College of Cardiology

Độ chính xác của huyết áp đo bằng bao tay

Tổng quan hệ thống và phân tích gộp

Dean S. Picone, Martin G. Schultz, Petr Otahal, Svend Aakhus, Ahmed M. Al-Jumaily, J. Andrew Black, Willem J. Bos, John B. Chambers, Chen-Huan Chen, Hao-Min Cheng, Antoine Cremer, Justin E. Davies, Nathan Dwyer, Brian A. Gould, Alun D. Hughes, Peter S. Lacy, Esben Laugesen, Fuyou Liang, Roman Melamed, Sandy Muecke, Nobuyuki Ohte, Sho Okada, Stefano Omboni, Christian Ott, Xiaoqing Peng, Telmo Pereira, Giacomo Pucci, Ronak Rajani, Philip Roberts-Thomson, Niklas B. Rossen, Daisuke Sueta, Manish D. Sinha, Roland E. Schmieder, Harold Smulyan, Velandai K. Srikanth, Ralph Stewart, George A. Stouffer, Kenji Takazawa, Jiguang Wang, Berend E. Westerhof, Franz Weber, Thomas Weber, Bryan Williams, Hirotsugu Yamada, Eiichiro Yamamoto, James E. Sharman

Tóm tắt: Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ tim mạch lớn nhất trên toàn thế giới. Quản lý THA thường được dựa trên đo huyết áp bằng bao tay, nhưng câu hỏi đặt ra là độ chính xác của phương pháp này như thế nào?

Mục tiêu: Phân tích tổng hợp xác định độ chính xác của đo huyết áp bằng bao tay và ảnh hưởng của độ chính xác này lên phân loại huyết áp so với các tiêu chuẩn tham chiếu đo huyết áp trong động mạch.

Phương pháp: Ba phân tích gộp các dữ liệu riêng rẽ được tiến hành trong các nghiên cứu từ những năm 1950 đến năm 2016. Các nghiên cứu này đo HA huyết  áp trong động mạch chủ, huyết áp trong động mạch cánh tay và huyết áp đo bằng bao tay (cuff)

Kết quả: Tổng cộng có 74 nghiên cứu với 3.073 người tham gia.

  • Mức huyết áp tâm thu động mạch cánh tay (SBP) cao hơn giá trị huyết áp động mạch chủ (8 mmHg, khoảng tin cậy 95%: 5,9 đến 10,1 mmHg, p <0,0001) và HA tâm trương trong động mạch cánh tay thấp hơn so với giá trị huyết áp động mạch chủ (-1,0 mm Hg, 95% CI: -2,0 đến -0,1 mm Hg, p = 0,038).
  • Khi đo bằng bao tay, huyết áp tâm thu thấp hơn huyết áp trong lòng động mạch cánh tay (-5.7 mmHg, 95% CI: -8.0 đến -3.5 mmHg, p <0.0001) nhưng huyết áp tâm trương cao hơn trong động mạch cánh tay (5.5 mmHg, 95% CI: 3,5-7,5 mm),
  • Huyết áp tâm thu trung bình đo bằng bao tay và trong động mạch chủ có sự khác biệt nhỏ (0,3mmHg, 95% CI: -1,5 đến 2,1mmHg, p = 0,77) nhưng sự tương đồng thấp (khác biệt tuyệt đối trung bình 8,0 mmHg, 95% KTC: 7,1 đến 8,9 Mm Hg).
  • Khi phân loại huyết áp theo JNC 7 theo các mức : tiền tăng huyết áp, huyết áp bình thường và tăng huyết áp giai đoạn 1 và 2, sự tương đồng giữa đo huyết áp bằng bao tay với HA trong động mạch cánh tay là 60%, 50%, 53% và 80%, và với HA trong động mạch chủ là 79%, 57%, 52% và 76%. Nếu sử dụng ngưỡng huyết áp  trong động mạch đã chỉnh dựa trên phân cấp bách phân vị của đo huyết áp bằng bao tay, sự phù hợp giữa phân loại HA sử dụng bao tay so với HA đo trong động mạch cánh tay là 71%, 66%, 52% và 76% và so với HA trong động mạch chủ là 74 %, 61%, 56% và 65%.

Kết luận: Huyết áp bằng bao tay không phải luôn chính xác khi phản ánh huyết áp động mạch cánh tay hoặc huyết áp động mạch chủ và điều này ảnh hưởng không tốt  tới việc phân loại huyết áp đúng. Những phát hiện này chỉ ra rằng các thiết bị đo huyết áp với các tiêu chuẩn chính xác hơn có thể cải thiện việc quản lý nguy cơ tim mạch.

 

JNC (Joint National Committee on Prevention, Detection, Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure): Uỷ ban Quốc gia chung về Phòng ngừa, Phát hiện, Đánh giá, và Điều trị  tăng huyết áp.

dohabangtay.JPG

 


Danh mục: Bài viết chuyên đề

Bình luận