Kết cục 5 năm của thay van động mạch chủ qua đường ống thông hoặc phẫu thuật

Người dịch: BS. Đào Xuân Dũng, bác sĩ khoa Hồi sức tích cực

Hiệu đính: PGS.TS. Lê Thu Hòa, Trung tâm ĐT- CĐT.

Tổng quan. Có rất ít dữ liệu về kết cục lâm sàng lâu dài và chức năng van sinh học sau khi thay van động mạch chủ qua đường ống thông (transcatheter aortic-valve replacement-TAVR) so với phẫu thuật thay van động mạch chủ ở các bệnh nhân hẹp van động mạch chủ nặng và nguy cơ phẫu thuật trung bình. Phương pháp. Chúng tôi đã tuyển 2032 bệnh nhân có nguy cơ trung bình bị hẹp động mạch chủ nặng, có triệu chứng tại 57 trung tâm. Bệnh nhân được phân tầng tuỳ theo khả năng tiếp cận qua động mạch đùi hoặc qua lồng ngực (tương ứng 76,3% và 23,7%) và được chỉ định ngẫu nhiên để trải qua TAVR hoặc phẫu thuật thay van. Kết cục lâm sàng, siêu âm tim và tình trạng sức khỏe được theo dõi trong 5 năm. Điểm cuối chính là tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào hoặc đột quỵ gây tàn phế. Kết quả. Sau 5 năm, không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ tử vong do bất kỳ nguyên nhân hoặc đột quỵ tàn phế giữa nhóm TAVR và nhóm phẫu thuật (lần lượt là 47,9% và 43,4%; tỷ lệ rủi ro, 1,09; khoảng tin cậy 95% [CI], 0,95 đến 1,25; P = 0,21). Các kết quả tương tự đối với nghiên cứu đoàn hệ tiếp cận đường động mạch đùi (lần lượt là 44,5% và 42,0%; tỷ lệ rủi ro, 1,02; 95% CI, 0,87 đến 1,20), nhưng tỷ lệ tử vong hoặc đột quỵ tàn phế sau TAVR cao hơn sau phẫu thuật trong nghiên cứu đoàn hệ tiếp cận qua đường thành ngực (59,3% so với 48,3%; tỷ lệ rủi ro, 1,32; 95%CI, 1,02 đến 1,71). Tại thời điểm 5 năm, số bệnh nhân trong nhóm TAVR bị hở cạnh van động mạch chủ, ít nhất ở mức độ nhẹ , nhiều hơn so với nhóm phẫu thuật (33,3% so với 6,3%). Nhập viện lặp lại thường xuyên hơn sau TAVR so với sau phẫu thuật (33,3% so với 25,2%), cũng như can thiệp lại van động mạch chủ (3,2% so với 0,8%). Cải thiện tình trạng sức khỏe sau 5 năm là tương tự ở nhóm TAVR và nhóm phẫu thuật.Kết luận. Trong số những bệnh nhân bị hẹp động mạch chủ có nguy cơ phẫu thuật trung bình, không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ tử vong hoặc đột quỵ gây tàn phế tại thời điểm 5 năm sau TAVR so với thay van động mạch chủ phẫu thuật.

Link bài: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMoa1910555

Hình ảnh:


Danh mục: Nghiên cứu khoa học , Bài viết chuyên đề

Bình luận
Bài viết liên quan