Sửa van hai lá qua đường ống thông ở bệnh nhân suy tim

 

Người dịch: ThS. Lê Văn Thực, Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Tim Hà Nội

Hiệu đính: PGS.TS. Lê Thu Hòa, Phụ trách Trung tâm ĐT- CĐT

Link bài: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMoa1806640

Tổng quan. Trong các bệnh nhân suy tim có hở van hai lá do rối loạn chức năng thất trái, tiên lượng bệnh là xấu . Sửa van hai lá qua đường ống thông (catheter) có thể cải thiện các kết cục lâm sàng của bệnh nhân

Phương pháp. Tại 78 đơn vị ở Mỹ và Canada, chúng tôi tuyển bệnh nhân suy tim và hở van hai lá thứ phát vừa đến nặng hoặc nặng vẫn còn triệu chứng dù đã sử dụng liều tối đa thuốc điều trị nội khoa theo hướng dẫn. Các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm sửa van hai lá qua catheter kết hợp điều trị nội khoa (nhóm can thiệp) hoặc nhóm điều trị nội khoa đơn thuần (nhóm chứng). Kết cục hiệu quả ban đầu là tất cả các trường hợp nhập viện do suy tim trong vòng 24 tháng theo dõi. Kết cục an toàn ban đầu là không có biến chứng sau sửa van tại thời điểm 12 tháng; tỉ lệ về kết cục này được so sánh với mục tiêu khách quan 88%.

Kết quả. Trong số 614 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, 302 bệnh nhân thuộc nhóm can thiệp và 312 bệnh nhân thuộc nhóm chứng. Tỉ lệ nhập viện hàng năm do suy tim trong vòng 24 tháng là 35.8%/bệnh nhân-năm ở nhóm can thiệp so với 67.9%/bệnh nhân-năm ở nhóm chứng (HR, 0.53; 95%[CI], 0.40 - 0.70; P< 0.001). Tỉ lệ không có biến chứng sau can thiệp  tại thời điểm 12 tháng là 96.6% (thấp hơn 95% giới hạn tin cậy, 94.8%; P<0.001 so với mục tiêu). Tử vong do mọi nguyên nhân trong vòng 24 tháng xảy ra ở 29.1% bệnh nhân ở nhóm can thiệp  so với 46.1% ở nhóm chứng (HR, 0.62; 95% CI, 0.46 - 0.82; P<0.001).

Kết luận. Trong số những bệnh nhân suy tim và có hở van hai lá thứ phát vừa đến nặng hoặc nặng có triệu chứng, mặc dù đã điều trị nội khoa với liệu tối đa theo hướng dẫn, sửa van hai lá qua catheter làm giảm tỉ lệ nhập viện do suy tim và giảm tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân trong vòng 24 tháng theo dõi so với điều trị nội khoa đơn thuần. Tỉ lệ không có biến chứng sau can thiệp vượt qua ngưỡng an toàn trước đó.


Danh mục: Nghiên cứu khoa học , Bài viết chuyên đề

Bình luận
Bài viết liên quan